Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mặt trận dân tộc thống nhất trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc thống nhất

Ngay sau khi xác định được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến thành lập Đảng, chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc với nòng cốt là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) ra quyết nghị: "Đảng chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm họp đại biểu tất cả các đảng phái như Tân Việt, Thanh Niên, Quốc Dân Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh,…để thành lập mặt trận phản đế mà về sau cá nhân hoặc tổ chức đều có thể gia nhập"[1]. Tiếp đó, tại Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10-1930) nêu rõ "Đảng cần phải tổ chức ra ở Đông Dương một phân bộ của Đại đồng minh phản đế"[2]. Triển khai Nghị quyết của Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 18-11-1930, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, ngày 18-11 hằng năm trở thành Ngày kỷ niệm thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.

Kể từ ngày 18-11-1930 đến nay, tên gọi của Mặt trận Dân tộc thống nhất đã nhiều lần thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng Việt Nam: Mặt trận Thống nhất Nhân dân phản đế Đông Dương (10-1936), Mặt trận Dân chủ Đông Dương (3-1938), Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương (11-1939). Tháng 5-1941, sau khi trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) thay cho Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương. Tháng 5-1946, để quy tụ hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt). Trước sự phát triển của thực tiễn cách mạng, theo chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 3-1951, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân Việt Nam đã kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời ở miền Bắc (1954).

Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam (1954-1975), Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (tháng 12-1960) và tháng 4-1968, thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người sáng lập, là linh hồn của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Người chỉ rõ, xây dựng và phát triển Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam nhằm quy tụ, tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, quy tụ mọi tổ chức, cá nhân yêu nước, tất cả người dân Việt Nam, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, theo tinh thần "Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết". Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận là một chiến lược cơ bản, lâu dài, xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng XHCN, trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc cũng như trong xây dựng nước Việt Nam ngày càng vững mạnh. Người khẳng định: "Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam"[3].

Bác Hồ và Bác Tôn gặp gỡ một số đại biểu tại Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt tháng 3-1951

2. Đảng vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc thống nhất trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; bằng vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần yêu nước, tự giác, tự nguyện tham gia cách mạng; bằng thực tiễn đoàn kết trong nội bộ Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng làm cho sức mạnh đại đoàn kết trong Mặt trận được nâng lên một tầm cao mới. Khẳng định nguyên tắc Đảng lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất, Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở: "Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo"[4]. Khi trở thành Đảng cầm quyền, để Đảng thực sự xứng đáng là linh hồn, là người lãnh đạo Mặt trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng phải luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, phải luôn nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, phải gương mẫu về mọi mặt để xứng đáng là đại biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của giai cấp và dân tộc.

Quán triệt những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất, từ năm 1986, lãnh đạo đổi mới đất nước, Đảng luôn khẳng định và phát huy vai trò của Mặt trận trong hệ thống chính trị. Tháng 12- 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…có vai trò to lớn trong việc động viên các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng, quản lý kinh tế và quản lý xã hội"[5]. Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi đồng bào ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài theo Đảng làm cách mạng. Tháng 6-1991, Đại hội lần thứ VII của Đảng mở ra triển vọng mới cho việc tăng cường, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân và Mặt trận dân tộc thống nhất. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thông qua nêu rõ: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận…"[6]. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, ngày 17-11-1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất nêu rõ nhiệm vụ của Mặt trận trong thời kỳ phát triển mới của đất nước là: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần được củng cố và mở rộng về tổ chức và hoạt động để thực sự là một tổ chức tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi thể hiện nguyện vọng và ý chí của các tầng lớp nhân dân, nơi thống nhất hành động giữa các thành viên, tham gia với chính quyền trong việc giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, trong việc thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, góp phần tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước"[7]. Trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng, ngày càng phát huy vai trò mạnh mẽ trong công cuộc đổi mới, tháng 6 - 1996, Đại hội Đảng lần thứ VIII chủ trương: "Củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân,…"[8]. Tháng 4-2001, Đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh hơn nữa vai trò rất quan trọng của Mặt trận Tổ quốc trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Triển khai chủ trương của Đại hội, ngày 12-3-2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) ra Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nêu rõ nhiệm vụ quan trọng lúc này là mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Tháng 4-2006, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, trong đó Mặt trận Tổ quốc có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, Mặt trận và các đoàn thể phải làm tốt công tác dân vận theo phong cách "trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân"[9]. Với chủ trương đó, ngày 8-12-2009, Bộ Chính trị ra Kết luận số 62 - KL/TW về tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội nêu rõ sự cần thiết phải đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở; phát huy quyền chủ động, sáng tạo của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong công tác vận động nhân dân phù hợp với đặc điểm địa phương, cơ sở; MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội làm nòng cốt trong việc phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm công dân trong các tầng lớp nhân dân.

 Xác định đoàn kết các dân tộc ngày càng có vị trí chiến lược quan trọng, Đại hội XII của Đảng (2016) khẳng định "Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc"[10]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng khẳng định, trong công cuộc đổi mới, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có những đóng góp quan trọng: "Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội, làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước"[11]. Tuy nhiên, Đại hội Đảng cũng nêu lên những hạn chế trong hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội: "Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đều"[12].

Xuất phát từ việc tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh phương hướng, nhiệm vụ đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội: "Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh"; thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[13].

Qua 10 nhiệm kỳ Đại hội, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều nghị quyết, chương trình, đề án với nhiệm vụ trọng tâm là tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự khẳng định vai trò của Mặt trận trong đời sống xã hội có một bước tiến lớn, mang ý nghĩa chính trị - pháp lý, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường, mở rộng đoàn kết dân tộc sau khi Quốc hội ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 6-1996). Trải qua hơn 90 năm, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam đã phát triển ngày càng vững mạnh, phát huy vai trò quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Thành quả của sự vững mạnh đó xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó vô cùng quan trọng là tinh thần yêu nước của toàn thể dân tộc trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tiễn cách mạng Việt Nam 90 năm qua cho thấy bài học lớn là khi nào Mặt trận Dân tộc thống nhất quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì khi đó cách mạng sẽ phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, cách mạng vượt qua mọi khó khăn, thách thức