Sau khi nghe vị đạo sĩ già kia nói, ông nội tôi hoảng sợ đến mức quỳ sụp xuống ngay trước mặt ông ta:
“Đạo trưởng, xin ngài nhất định phải cứu lấy đứa cháu trai này của tôi! Nó là mầm non duy nhất của cả nhà, nếu nó có chuyện gì, thì nhà họ Tả chúng tôi coi như tuyệt hậu rồi!”
Vị đạo trưởng đỡ ông nội tôi đứng dậy, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi mới chậm rãi nói:
“Huynh đệ à, con yêu rắn kia đã tu luyện mấy trăm năm, lại thêm cháu trai cậu bẩm sinh có đôi mắt âm dương – điều này khiến Thiên Đạo không thể can thiệp. Hôm qua nó chưa thành công, nhưng tối nay là ngày âm, chắc chắn nó sẽ quay lại. Cứ trốn trong nhà thì không thể thoát đâu. Muốn cứu nó, chỉ có một cách…”
“Cách gì?!”, ông tôi vội vàng hỏi.
Vị đạo sĩ chậm rãi trả lời:
“Gả cho cháu cậu một cô dâu... là ma!”
Nghe vậy, ông nội tôi sững sờ, chết lặng một lúc lâu. Nhưng cân nhắc một hồi, ông vẫn gật đầu đồng ý.
Dù khi đó tôi còn nhỏ, nhưng cũng đủ hiểu những gì đạo sĩ nói.
Lấy một cô dâu là ma? Đó chẳng khác gì muốn lấy mạng tôi! Không cần yêu quái đến bắt, chỉ cần nhìn thấy cô dâu ma thôi chắc tôi cũng hồn bay phách tán mất!
Tôi phản đối dữ dội, quyết không lấy vợ ma, thề sống chết cũng không chịu.
Thế nhưng… lập trường "sống chết không cưới vợ ma" của tôi đã bị đánh bại chỉ bằng... hai viên kẹo sữa Bạch Thố mà ông nội đưa ra dụ dỗ.
“Ông ơi, con đồng ý, nhưng ông phải tìm cho con một cô ma xinh đẹp!”
Khi ấy tôi nghĩ đơn giản lắm: Không phải để sĩ diện đâu, chỉ sợ ma xấu nhìn ghê quá làm tôi sợ chết thôi!
“Được được, ông hứa sẽ tìm cô ma đẹp nhất cho cháu!”
Ngay sau khi rời đạo quán, ông tôi không nói gì thêm, về nhà lấy tiền rồi dắt tôi đến nghĩa trang trong thành phố.
Trong nghĩa trang, ông dắt tôi đi từ mộ này sang mộ khác. Hễ thấy ngôi mộ nào là của cô gái trẻ chưa lập gia đình, ông lại thắp ba nén nhang trước bia rồi lẩm nhẩm:
“Cô nương, lão phu họ Tả, tên Hữu Danh, đây là cháu trai Tả Thập Tam, ngũ hành Kim Thổ, bát tự là: Tân Mùi, Bính Thân, Canh Thìn, Canh Thìn. Bẩm sinh đôi mắt âm dương. Hôm nay mạo muội dẫn cháu tới đây, chỉ mong cùng cô kết duyên âm dương, mong cô phù hộ cháu được bình an. Nhà họ Tả chúng tôi đời đời hương khói, không dám sơ suất.”
Nói xong, ông lấy từ túi ra một chiếc vòng ngọc trắng, đặt trước mộ rồi nói:
“Coi như đây là sính lễ. Nếu cô đồng ý, xin hãy nhận lấy.”
Chúng tôi đứng chờ đến khi ba nén nhang cháy hết – hai ngắn một dài, ý là... cô ấy không đồng ý. Ông đành thở dài thu lại vòng ngọc, rồi tiếp tục tìm mộ khác.
Giờ tôi mới hiểu: không phải ông đang chọn vợ ma cho tôi – mà là các "cô ma" đang chọn tôi!
Cứ như vậy, ông đưa tôi đi khắp nghĩa trang, hết ngôi mộ này đến ngôi mộ khác, nhưng đều nhận lại cùng một câu trả lời: không đồng ý.
Trời dần tối, vẫn chưa tìm được ai chịu "kết duyên" với tôi. Tôi bắt đầu tự ti, quay sang hỏi ông:
“Có phải vì con xấu quá nên ma cũng không thèm lấy?”
Ông lắc đầu:
“Không phải đâu. Những vong chưa siêu sinh rất muốn kết duyên âm dương, được sống nhờ vào hương khói của người trần. Nhưng chỉ vì con yêu rắn đã sống mấy trăm năm kia – đến cả ma cũng không dám dây vào nó!”
Tuy vậy, ông tôi vẫn không bỏ cuộc.
Trời tối đen như mực, ông bắt đầu sốt ruột. Nếu đến 12 giờ đêm vẫn chưa tìm được vợ ma cho tôi, thì tôi... xong đời!
Vì vội vàng, ông vấp phải thứ gì đó và ngã nhào xuống đất, chiếc vòng ngọc lăn ra ngoài rồi dừng lại bên một gò đất nhỏ.
Ông vừa định nhặt lại thì đột nhiên… chiếc vòng biến mất!
Tôi dụi mắt nhìn kỹ – vẫn không thấy đâu. Nhìn sang ông, tôi thấy khuôn mặt nghiêm nghị bỗng ánh lên một tia hy vọng:
“Cô nương, cô nhận vòng rồi? Đồng ý gả cho cháu trai tôi thật sao?”
Không ai đáp. Chỉ có một cơn gió nhẹ thổi tới, xoay quanh tôi ba vòng.
Thấy vậy, ông tôi mừng rỡ, kéo tôi đến:
“Thập Tam! Mau cúi đầu cảm tạ vị cô nương này – à không, vợ tương lai của cháu!”
Tôi vừa định quỳ, thì một luồng gió mạnh thổi qua nâng người tôi dậy. Rồi một giọng nữ trong trẻo như chuông bạc vang lên tứ phía:
“Nam nhi quỳ trời, quỳ đất, quỳ cha mẹ, sao có thể quỳ vợ? Đã là thê tử của nhà họ Tả, ắt sẽ bảo hộ chu toàn, không cần đa lễ.”
Nghe giọng nói lạ lẫm ấy, tôi sợ muốn tè ra quần, nhưng... lại thấy rất hay!
Giọng nói ấy không giống người thời nay. Ông tôi cũng ngẩn người, rồi hỏi:
“Cô nương... mất vào năm nào?”
Giọng nói ấy lại vang lên:
“Năm Trinh Quán thứ 20, tháng Sáu…”
Ông tôi chết lặng.
Tôi cũng ngây người – ông vừa gả tôi cho một cô gái thời… Đường cách đây hơn một nghìn năm!?
Còn tôi thì nghĩ: chết rồi… tôi vừa làm mất một viên kẹo sữa Bạch Thố!
Ngay lúc ấy, gió lớn nổi lên, mây đen che kín cả trăng sao. Ông tôi ôm chặt tôi, siết mạnh đến mức tôi thở không nổi.
Qua làn gió, tôi thấy bên kia nghĩa trang, có một người phụ nữ đang tiến về phía chúng tôi…
Nhưng dáng đi của cô ta quái dị vô cùng – đi một bước, lắc hai cái, cuối cùng thì nằm xuống đất, uốn éo trườn tới như… rắn!
Tôi hét lớn:
“Ông ơi! Con yêu rắn nó đến rồi!”
Ông tôi run lên. Nhưng chưa kịp quay lại, giọng nữ kia đã vang lên:
“Cút!”
Một chữ thôi, vọng khắp bốn phương.
Con yêu rắn kia – kẻ đã gieo rắc tai họa cho nhà tôi – nghe xong liền lăn tròn mà biến mất, thực sự là… lăn lông lốc mà đi!
Từ khoảnh khắc đó, tôi bắt đầu kính phục cô vợ ma chưa từng gặp mặt này. Trong lòng tôi, cô ấy còn mạnh hơn cả Hồ Lô Các – vì họ phải cần đến bảy người mới trị được yêu quái, còn cô ấy… chỉ cần nói một chữ.
Sau đó, ông tôi dập đầu cảm tạ không ngừng, rồi lấy ra một miếng ngọc bội, đặt lên gò đất:
“Cô nương, mời nhập vào đây.”
Tôi thấy một bóng đen từ gò đất chui vào miếng ngọc. Ông tôi treo miếng ngọc đó lên cổ tôi, căn dặn:
“Thập Tam! Dù có chuyện gì cũng không được tháo ra hay làm mất, nghe chưa?”
Tôi gật đầu, rồi hỏi:
“Ông ơi, con muốn gặp vợ ma của con…”
Ông đáp:
“Lớn lên rồi tính.”
Trên đường về, tôi buồn bã nói với ông rằng mình làm rơi mất một viên kẹo sữa.
Ông cười to, móc túi ra… thêm hai viên nữa đưa cho tôi.
Tôi nhìn chằm chằm vào túi áo ông, trong lòng chỉ có một suy nghĩ:
Túi ông lợi hại hơn cả túi thần kỳ của Doraemon!
Về đến nhà, ông không quay về ngay mà dẫn tôi đến đạo quán lần trước. Ở đó, đạo sĩ dùng trúc bóng, sáp ong, kim hồng, muối pháp và vảy cá đỏ chế thuốc dán, phong ấn đôi mắt âm dương của tôi.
Sau khi về nhà, việc đầu tiên ông làm là tìm gỗ tốt, khắc một bài vị, đặt dưới vách bắc của gian ngoài.
Trên bài vị ghi tên: An Như Sương.
Tôi mới biết, vợ ma của tôi… tên là An Như Sương.
Biết được ngày sinh tháng đẻ của cô ấy, ông lập tức quỳ lạy chín lần, mặt mày hớn hở, miệng không ngừng lẩm bẩm:
“Nhà họ Tả ta có phúc… Thằng cháu ta có phúc lớn rồi…”