CHƯƠNG 3

Đó là những câu chuyện thường nhật của buổi sáng và trưa, đến tối chúng tôi sẽ bị lùa lên phòng lúc 8h30. Đến 9h, khắp nơi đã chìm vào màn đêm im ỉm. Ừ thì đất Sài Gòn ấy, nhưng giờ này cũng đâu còn chỗ nào ăn chơi đâu, đã qua rồi cái thời nườm nượp náo nhiệt!

Đợi má lên kiểm tra phòng chúng tôi xong, cả ba đứa lại he hé kéo tấm cửa sắt ở ban công lên, để gió đêm và ánh trăng sáng tỏa ngập trước hiên phòng. Khi ấy tôi và em sẽ cùng hướng mắt lên màn trời sao, dâng mình đọc kinh nguyện. Cả hai chúng tôi vẫn luôn ngây ngốc tin rằng Đức Chúa lòng lành đang ẩn mình trên tít mấy tầng mây kia, chỉ cần ngước nhìn lên bầu trời đêm ấy, biết đâu lại thấy được ngài. 

Đọc kinh tối xong, chúng tôi sẽ chắp tay cầu nguyện. Đã lâu rồi tôi chẳng biết phải nguyện cầu điều gì. Vốn dĩ tôi thấy cuộc sống mình đủ rồi, chẳng cần xin cầu gì hơn. Thành thử, giờ cầu nguyện lại là giờ tôi len lén ngắm em, ngắm đôi mắt nhắm hờ và vẻ mặt thành thành khẩn khẩn của em. "Em cầu nguyện cái chi vậy?" Tôi hỏi.

"Em cầu mình được qua Mỹ để sớm tìm thấy cha." 

Rất nhiều lần tôi đã hỏi về điều ước của em và lần nào em cũng trả lời như vậy. Dần dần, tôi cũng biến điều ước của em thành lời nguyện cầu của tôi. Cầu cho em sớm tìm được cha ruột, nhưng còn sang Mỹ ư? Tôi trở nên ngập ngừng với điều đó…

Mỗi đêm nguyện cầu của hai chúng tôi chắc chắn sẽ lãng mạn, đẹp đẽ nếu như không có mấy tiếng lạch cạch của Thái Dung. Ừ, vẫn luôn là thằng ấy! Cứ vào cái giờ đó, nó lại quần áo chỉnh tề, lượn lờ trước gương chải chuốt, rồi không nói không rằng lao ra ban công. Lần đầu tiên trông thấy cảnh tượng đó, tôi đã nắm chân nó lại, đanh giọng hỏi: "Đi đâu?"

"Chuyện riêng, kệ người ta đi!"

"Giờ này ra ngoài bộ không sợ bị kiểm tra hen?"

"Người ta tự biết lo thân, không cần ông Cha ngáo ngơ như mấy người nhắc đâu."

Tôi buông tay ra, thả một câu lạnh tanh: "Má mà biết là nhừ đòn."

"Thì cũng là người ta chịu chứ có phải mấy người."

Tôi chau mày bực bội nhìn nó. Cái thằng gàn dở ấy, có ra làm sao thì tôi cũng kệ.

"Chỉ cần Cha đừng nhiều lời là được!" Dung thả lại một câu rồi đu ban công leo xuống. Điên thật, nó leo từ tầng ba xuống đất đấy! Và nó làm việc đó khẽ khàng, thoăn thoắt như một con mèo.

Em chúi đầu xuống ban công nhìn theo nó mà không ngớt lời khen: "Ảnh ngầu quá ha anh, cao quá trời quá đất luôn mà cũng leo được."

Tôi bĩu môi, không giữ nổi những móc mỉa: "Y chang mấy thằng đầu trộm đuôi cướp hay lẻn vào nhà người ta thì có. Thể nào cũng có ngày…"

Mà cũng có ngày thật! Thi thoảng gần 4 giờ sáng, tự dưng má lại dựng cửa phòng chúng tôi lên nhòm ngó. Hên thì Thái Dung đã về và nằm một cục ngoan ngoãn cạnh tôi, nhưng cũng có hôm nó trở về ngay lúc má lên phòng. Tôi còn nhớ hôm đó, em vội chạy ra ban công, đứng chắn phía trước cái đầu lấp ló của Dung, ra hiệu cho nó đừng trèo lên.

"Thằng Dung đâu?" Má hỏi.

Tôi ú ớ, cố tìm ra một lý do. Dễ nhất là tôi cứ nói thật với má, vì tôi đã bảo là sẽ mặc kệ thằng ấy mà. Nhưng chẳng hiểu sao tôi lại chọn cách nói dối hộ Dung: 

"Nó... ra nhà thờ rồi má. Hôm nay Cha xứ nhờ nó chuẩn bị chút chuyện cho lễ sáng nên nó đi từ nãy rồi."

Má bán tín bán nghi, nhưng vì là lời tôi nói nên bà cũng không hỏi lại. Chẳng ai lại đi nghi ngờ mức độ trung thực của một Đức Cha cả, dù là một Đức Cha trong thì tương lai.

Khi còn lại ba đứa, tôi đã cáu tiết mắng Dung: "Mấy người dẹp cái trò đi đêm đó đi, làm phiền người ta quá!"

"Xin lỗi nhưng người ta có việc thật, không ngưng được. Nhưng...sau này... sẽ cố gắng về sớm hơn."

"Kệ thay mấy người, không phải lúc nào cũng may mắn như vậy đâu!" Tôi đặt dấu chấm hết cho cuộc hội thoại rồi nằm xuống, cố ngủ tiếp.

Trong cả cuộc gây hấn ấy, em chẳng nói lời nào cả. Bởi lẽ em nghĩ rằng mình không có quyền ngăn cấm hay giáo huấn ai. Việc mà em có thể làm là chấp nhận và thích nghi với mọi hành động của người khác.

Thái Dung thay đồ ngủ rồi nằm xuống cạnh tôi. Nó hít hơi sâu tìm lại bình tĩnh, rồi quay sang thì thầm vào tai tôi: "Cảm ơn Cha đã vì con mà…phạm tội."

Tôi thấy nhột nhạt vì lời thì thầm của nó. Quay lưng vào Thái Dung, tôi tiếp tục ru mình vào giấc ngủ.

Kể từ ngày đó, đúng là Thái Dung có về sớm hơn và cũng hạn chế đi đêm lại. Song thi thoảng, nó lại mang về phòng chúng tôi mấy thứ khác kinh sợ hơn, những vết thương hoặc vết bầm tím trên người nó. Chẳng lần nào tôi gặng hỏi được nguyên do, riết rồi tôi cũng kệ. Còn em lại chọn cẩn thận, tỉ mỉ băng bó, sức thuốc cho nó. Nếu vết thương nằm lộ rõ ở nơi không che giấu được, Dung cũng chỉ tỉnh rụi nói với cả nhà rằng đó là kiểu vết thương giữa mấy thằng con trai mới lớn với nhau. Vậy nên chiếc hộp cứu thương nhỏ đã được má trao cho phòng chúng tôi sử dụng.

Lại có những hôm Dung trở về nhà trong màn mưa mù mịt. Trông nó ướt mem, quéo quắt, run lập cập. Em vội đưa khăn cho nó lau người rồi tìm giúp nó bộ quần áo mới. "Giá mà nấu được cho ảnh nồi nước nóng để tắm. Để ướt vậy bệnh chết!" Em thì thầm trong tiếng mưa. 

Như bị ai đó xui khiến, tôi te te đi xuống bếp, đun liền một ấm nước sôi. Nếu sáng ra ai có hỏi, tôi cứ bảo do Đức Cha tương lai muốn được gột rửa bản thân vào cái giờ khuya lắc khuya lơ, vậy thôi. Gì chứ tôi cũng có chút quyền thế trong cái nhà này mà.

Tôi rón rén bước vào nhà vệ sinh, trên tay bưng nồi nước sôi. Dung nhìn tôi và hỏi, lần nào cũng như lần nấy: "Cha có muốn điều gì ở con không?" Tôi luôn nhìn trân trân nó mỗi khi nó hỏi tôi kiểu ấy. Thật chẳng hiểu nó muốn ám chỉ gì nữa.

Khi mùa mưa vào đến đỉnh điểm, mưa thối trời thối đất là lúc chúng tôi khốn khổ nhất. Dù đã kéo kín tấm cửa cuốn, gió lạnh vẫn ập vào phòng chúng tôi. Thái Dung nằm sát góc trong cùng, cứ than lên thở xuống: "Mưa chi ác dữ, vậy rồi ai làm ăn gì được!"

"Giờ này còn ai bán cái gì nữa anh?" Em ngây thơ hỏi.

"Giờ này mới là giờ buôn bán của một số người chú em à!"

"Ngủ đi!" Tôi chen ngang, không muốn em nói gì với Thái Dung. Thằng ấy quá nguy hiểm cho em của tôi.

Tiếng mưa vẫn lộp độp rả rích trên mái nhà, ru chúng tôi vào giấc ngủ chập chờn. Dám cá là chẳng đứa nào mơ được giấc mơ gì ra hồn đâu, vì gió lạnh cứ không ngừng đánh thức các giác quan của chúng tôi. Khổ nổi chỉ có một cái mền cho ba thằng con trai. Tôi nằm ở giữa thì đâu sợ bị thiệt, còn em nằm ở ngoài sát cửa nên chắc chắn lạnh nhất. Do đó tôi luôn chú ý trùm mền kỹ càng cho em, thành thử cái mền chỉ còn dư lại một khúc chút xíu. Thái Dung nằm ở trong cùng, lại luôn phải giữ khoảng cách với tôi (vì tôi muốn vậy) nên nó chẳng ké được miếng mền nào. Nhìn nó nằm co ro như con tôm, tôi cũng thấy tội. Nhưng kệ, nằm trong cùng thì đâu lạnh gì. 

Tôi quay lại với giấc ngủ chập chờn của mình. Không lâu sau, Thái Dung trở mình. Nó cố chọt chọt đôi bàn chân lạnh ngắt vào góc mền còn thừa, tay từ từ mò vào theo. Ngủ một hồi tôi lại thấy Dung…co rút vào thân tôi. Như kiểu thói quen hoặc do thuận tay, tôi hất góc mền lên, cố phủ kín người Dung. Thằng ấy nhanh nhảu, nhích sát vào hơn rồi ôm lấy tôi luôn. Hay thật!

Tôi ngó qua chỗ em để chắc chắn rằng em vẫn ấm, rồi choàng tay, chặn góc mền bên phía Dung lại, đảm bảo nó không trượt ra khỏi người thằng ấy. Giờ thì ấm cả ba rồi! Việc tốt như vậy là việc một Đức Cha tương lai như tôi cần phải làm, và chẳng có gì phải lăng tăng nghĩ ngợi về nó cả!

Thế là mùa mưa năm ấy của chúng tôi trôi qua dưới một tấm mền mỏng chia ba!

=========================

Mùa ẩm ướt qua đi là lúc tôi phải cắp sách đến trường. Thời gian để ở bên em bỗng dưng bị rút ngắn xuống một nửa. Cơ hội để tôi bảo vệ và chăm lo cho em cũng ít dần. Thế nên dù muốn hay không, tôi vẫn phải phó thác em cho cái thằng kia - thằng Thái Dung ấy. Mỗi khi tôi bảo nó phải nhớ để mắt trông chừng em, nó luôn ra bộ vâng phục mà rằng: "Thưa Cha con biết rồi!" Đấy nó cứ như thế, bảo sao tôi không bực nó cho được?

Song việc giao em vào tay Dung chắc chắn không phải là một lựa chọn tồi. Thằng ấy luôn biết cách lấy lòng người lớn, hoặc cũng có thể là nắm thóp họ và tỏ rõ uy quyền với đám bé hơn. Thế nên chẳng ai dám hé ra cái từ 'con lai' trước mặt nó cả. Vì vậy để em đi cạnh Dung thì ít ai dám động đến em. Lại thêm việc là con lai như nhau nên Dung luôn sẵn sàng dìu dắt, chỉ dẫn em. Thôi thì cũng cảm ơn nó vậy!

Dù đã phó thác em an toàn trong tay người khác xong, tôi vẫn thấy tiếc. Giá mà em được đến trường cùng tôi thì tốt biết mấy!

Khi em biết được vài chữ bập bẹ là lúc chế độ thay đổi, cơ ngơi gia đình tôi cũng suy sụp, thành thử má buộc em phải ở nhà phụ việc luôn. Từ đó em trở thành một đứa con lai ít học, ngày càng thiệt thòi hơn so với đám cùng trang lứa. Còn Dung, dù không đến trường nữa, nhưng số chữ nó biết được vẫn nhiều hơn em. Bởi khi ở trại trẻ mồ côi, nó đã được các ma sơ dạy dỗ kỹ lưỡng. Vậy nên mới có chuyện, nó hay hoạnh họe tôi mỗi khi nghe tôi kể chuyện.

Khi quay trở lại trường, tôi lại được học nhiều thứ, nào là chuyện cổ xưa, chuyện anh hùng, chuyện đời thường, chuyện của những nhà bác học. Tất cả chúng đều trở thành những đề tài thú vị để tôi kể cho hai đứa ở nhà nghe mỗi ngày. Dù chỉ suýt soát nhau chục tháng, em thì nhỏ hơn, Dung thì lớn hơn tôi một tẹo, song cứ mỗi khi nghe tôi kể chuyện, cả hai đứa kia đều biến thành mấy đứa trẻ lên ba. Em cứ tròn xoe mắt nhìn tôi, còn Dung lại cau mày, vểnh tai lên hóng. Bởi trên thực tế, tôi chỉ kể cho em nghe nhưng làm sao mà đứa thứ ba trong căn gác bé tí này lại không nghe được chứ. Bằng chứng là nó luôn chen ngang bằng những câu hỏi cắc cớ. Đợi khi tôi ú ớ, nó lại vênh mặt lên. Hẳn Dung muốn chứng minh, nó cũng nhiều chữ như tôi. Cái thằng ấy...thiệt kỳ!

Cả mùa tựu trường năm ấy hẳn sẽ trôi tuột qua nếu như không có một tai ương từ đâu rơi xuống. 

Mọi chuyện bắt đầu từ một trận đá bóng của ba đứa tôi với thằng mập con bác tổ trưởng, cùng hai ba đứa con nít khác nữa.

Trưa hôm ấy trời nắng gắt, đứng gió, tôi ngồi trong bóng râm, nheo mắt nhìn bọn kia chạy lăng xăng với trái banh. À tôi quên nói, thật ra tôi chỉ đi theo em và Thái Dung, chứ chẳng có chút tâm hồn vận động nào cả. Như một thầy tu thực thụ, tôi chỉ thích việc ngẫm nghĩ trong tĩnh lặng mà thôi.

Thằng mập chống tay vào hông, oang oang nói: "Ê thằng con lai, ra nhặt banh coi!"

"Mày kêu ai đó thằng mập?" Thái Dung hất mặt vặn lại khiến cậu quý tử bên kia líu lưỡi.

"Là thằng con... lai... thằng Hiền."

Em hơi cau mày, không biết vì nắng gắt hay vì bực nhưng vẫn dợm bước ra chỗ nhặt banh.

"Không phải đi!" Dung kéo tay em lại: "Thằng nào đá ngu, sút ra đó thì tự qua lấy."

Mập ta lầu bầu nhấc chân. Nó biết nếu có Dung ở đây thì nó chẳng làm được gì cả, dù là võ mồm hay võ tay chân. Dung kéo em đến gần chỗ trái bóng, cà khịa nhìn thằng mập. Nếu như hôm ấy Thái Dung không hành xử lỗ mãng như vậy, hẳn tai ương đã chẳng xảy ra.

Bị khiêu khích, thằng mập giơ cao chân, đá phăng quả bóng về hướng em và Dung. Hai người họ nhanh nhẹn né được. Trái bóng va vào tường rồi dội ngược ra chỗ cua quẹo của cái cầu thang cấm.

*Xoảng*

Tiếng đổ bể. 

Tôi chạy ào đến xem, mặt mũi hóa xanh mét. Cái bàn thờ đặt ở cua quẹo đã ngã đổ lộn xộn. Bát nhang và mấy chén rượu vỡ thành nhiều mảnh, mấy lá bùa giấy màu vàng chấp chới như muốn bay đi.

"Bể bàn thờ rồi, bể bàn thờ rồi bớ bà con, bể bàn thờ rồi..."

Không quá lâu để một đám đông bu quanh chỗ cầu thang cấm. Đám con nít tụ lại một góc. Ba chúng tôi đứng sát vào nhau, không đứa nào giấu được nét sợ hãi. 

"Đứa nào, là đứa nào làm?" Bà thím mặc bộ bà ba trắng dữ tợn hỏi.

Bọn con nít chỉ tay vào thằng mập. Thằng bé sợ hãi chạy đến núp sau lưng má nó, mếu máo: "Con không biết gì hết đó má, không phải tại con, tại mấy thằng kia kìa," nó chỉ tay về chỗ chúng tôi.

Thái Dung liền quắc mắt: "Là mày đá vào đó chứ ai làm mà đổ thừa?"

"Má ơi…" Thằng mập lại bám riết sau lưng má nó, cầu xin sự chở che. 

Má tôi cũng xuất hiện, dáng vẻ như sẵn sàng đối đầu.

"Sắp có họa rồi, giờ lấy cái gì trấn con quỷ cái trong đó?" Ông già gầy đét nói.

"Mời thầy tới lẹ lẹ đi!"

"Tối nay nó lại gào rú cho mà coi, không biết có quấy phá cái gì nữa không?"

"Cúng kiếng đầy đủ mà nó còn phá được, huống chi..."

"Nó sẽ tìm về báo thù bọn đàn bà năm xưa..." Một gã nát rượu, què quặt, chột mắt phá lên cười man rợ.

"Thằng điên!" Bà thím bận bà ba trắng xô ngã gã bợm rượu.

Tôi thoáng thấy ánh mắt lo sợ của bà ta và một vài người đàn bà khác.

"Cái gì mà tụ tập ở đây vậy bà con?" Ông tổ trưởng xuất hiện, chen vào giữa đám đông.

"Cái bàn thờ bể rồi, con quỷ cái kia tối nay sẽ hú hét dọa người cho mà xem."

"Nhảm nhí!" Ông tổ trưởng đáp lại, "ma cỏ gì, bà con không có được mê tín dị đoan!"

"Mê tín gì ông ơi, chuyện thiệt rành rành ra vậy. Ai ai ở cái chung cư này cũng đều nghe tiếng nó mỗi đêm mà."

Nhiều tiếng đồng tình râm ran vang lên.

Ông tổ trưởng tặc lưỡi, có vẻ chịu thua số đông. "Rồi đứa nào làm bể cái bàn thờ?" Ông hỏi.

Bọn con nít lại nhao nhao chỉ vào thằng mập, cũng là cậu con độc nhất của ông tổ trưởng. Bà vợ ông tổ trưởng vội đứng chắn trước mặt đứa con, không giấu vẻ thách thức với chồng mình. Ấp úng một hồi, ông ta tìm lại được phong thái của một người có chức có quyền, quả quyết nói: 

"Giờ vầy đi, cho một đứa lên đó, cầm theo đồ cúng coi có con ma nào không là biết liền. Nếu có thì chỉ việc xin lỗi vụ bể bàn thờ, rồi cúng bái cho nó thôi. Còn không thì từ nay, bà con làm ơn dẹp giùm tui cái vụ mê tín này đi."

"Thằng mập, thằng mập đi kìa!" Bọn con nít lại chỉ trỏ trong khi cậu mập sợ mất mật, bám dính sau lưng má nó. Người đàn bà khi phải bảo vệ con sẽ có thể nghĩ ra trăm ngàn kế, dù là kế gian, mưu độc.

"Phải là một thằng con lai," bà vợ ông tổ trưởng lớn tiếng, "Sinh thời con quỷ cái đó đã mây mưa xúm xính với bọn lính Tây, thế nên một thằng con lai chắc chắn sẽ làm nó dễ nguôi cơn giận hơn."

"Đúng đó, để thằng con lai lên đi, tụi nó cùng một giuộc mà," người đàn bà bận bà ba trắng hùa theo.

Trong giờ khắc đó, đôi tay em sợ hãi nắm chặt lấy tay tôi.

"Cô Hương," ông tổ trưởng gọi tên má tôi.

Má im lặng nhìn ông ta một hồi, ra chiều suy ngẫm. Bạn đừng nghĩ rằng một ông tổ trưởng thì có thể uy hiếp được gì với má tôi, thật ra là nhiều đấy! Bạn không nên đi gây chuyện với một ông tổ trưởng, người đại diện cho nhà nước ở khu xóm của bạn. Bạn cũng không nên cau có gì khi nhà bạn nuôi tận hai đứa con lai, chồng bạn từng là một đại gia của chế độ cũ, và hầu hết con cái bạn đều đi đến nhà thờ. Vào cái thời ấy, một ông tổ trưởng cũng là một mối quyền lực lớn.

"Thằng Hiền sẽ đi!" Má nắm tay em lôi ra trước mặt.

"Má!" Lần đầu tiên tôi thấy em nắm lấy vạt áo má tôi, kêu cầu một sự thương xót. Bên này là em, bên kia là thằng mập, hai hình ảnh giống nhau, hai đứa trẻ cố tìm kiếm sự bảo bọc từ má chúng, và hai bà má...khác nhau. Má dứt tay em ra khỏi áo mình rồi đẩy em lên trước.

Tôi bất bình lớn tiếng: "Má!"

"Mày im đi!" Má tôi nạt rồi nhìn vào đám đông, nói: "Tối nay, thằng Hiền sẽ lên căn hộ đó và làm đúng theo những yêu cầu của ông tổ trưởng, làm - thay - cho - con - ông," má nhấn mạnh mấy chữ cuối, "Chỉ duy nhất lần này và sẽ không có lần sau!" Nói rồi má tôi rẽ đám đông bước về nhà, chúng tôi lẽo đẽo theo sau.